“PHIM HẠI NÃO” LÀ CÁI QUÁI QUỶ GÌ VẬY? (Phần 1)
“PHIM HẠI NÃO” LÀ CÁI QUÁI QUỶ GÌ VẬY? (Phần 2)
“PHIM HẠI NÃO” LÀ CÁI QUÁI QUỶ GÌ VẬY? (Phần 4)
Chủ nghĩa hậu hiện đại (Postmodernism)
Đây là một hệ thống tư tưởng rộng lớn và phức tạp khó có thể giải thích vừa chính xác vừa ngắn gọn, súc tích vì bản thân cụm từ “hậu hiện đại” vừa ám chỉ thời gian (tiếp nối sau chủ nghĩa hiện đại – modernism) vừa hàm ý tính chất của chủ nghĩa này.
Chủ nghĩa hiện đại xuất hiện từ cuối thế kỷ XVIII, nó phê phán chủ nghĩa hiện thực (realism) và xa cách các xu hướng nghệ thuật trước đó, cho rằng nghệ sĩ cần phải thoát xa khỏi hiện thực để cho sức sáng tạo bay bổng với các sáng tác siêu thực, ấn tượng…
Kéo dài cho đến trước Chiến tranh Thế giới thứ II thì được chủ nghĩa hậu hiện đại phần nào tiếp nối. Tuy liền mạch nhau về tuyến thời gian nhưng chủ nghĩa hậu hiện đại tiếp tục phủ nhận và giải thoát khỏi những cách tiếp cận trước đó.

Phim ảnh hậu hiện đại công kích những sự phân loại rõ ràng như phân biệt giới tính nam/nữ, xu hướng tính dục đồng tính/dị tính, phân biệt chủng tộc trắng/đen, đế quốc với thực dân… Không xoay quanh một bản thể trung tâm nào, họ gạt bỏ đại sự, không bàn đến những vấn đề đao to búa lớn và thiên tự sự vì không muốn mình đại diện cho một hệ tư tưởng hay thái cực nào đó. David Lynch, Wim Wenders, Charlie Kaufman, Peter Greenaway, Jean-Luc Godard… đều là những nhà làm phim ủng hộ chủ nghĩa hậu hiện đại.
Thậm chí kể cả Béla Tarr – người chưa bao giờ thừa nhận mình theo hậu hiện đại, và cũng không ai nghĩ như vậy. Họ cho rằng ông theo thuyết remodernism (phục hồi hiện đại). Nhưng riêng với mình, những phim Béla Tarr đã làm đều cho thấy điều đó: ông chú trọng cực kì đến cái gọi là khoảnh khắc.
Những phân cảnh dài (long take) đến chục phút chỉ xoay quanh con ngựa đi quanh làng, con bò đi ra đồng với nhịp độ phim chậm, siêu chậm có thể làm những người kiên nhẫn nhất cũng phải nổi khùng. Dường như Tarr tiếp cận với ngôn ngữ điện ảnh bằng một cách hoàn toàn khác, ngay cả khi so sánh với Kubrick hay Tarkovsky.
Cult-Classic
Ở đây chúng ta bàn đến sự tương phản giữa phim ảnh mainstream (dòng chảy chính thống – từ giờ xin được để nguyên từ này cho ngắn gọn) và Cult (phim thiêng). Đại loại nếu như những phim mainstream thì nổi tiếng, được nhiều người biết đến hay gắn liền đến cái gọi là thương mại thì Cult hoàn toàn mang nghĩa ngược lại, nó lan truyền và được tung hô trong một số nhóm người xem/fan nhất định gọi là Cult-Follower.
Dĩ nhiên định nghĩa này chỉ mang tính một chiều bởi không phải phim nào có tính chất như vậy thì đều là Cult cả. Thường thì ta thấy những phim mainstream của Mĩ thì có hậu thuẫn lớn về mặt tài chính của các hãng phát hành nên nó sẽ nhận được sự phối hợp từ các nhánh khác của chính hãng đó như quảng cáo trên truyền hình, trên báo, radio và nhiều phương tiện truyền thông khác…
Còn Cult, có lẽ nó thiên về nghệ thuật hơn, thiếu vắng sự hỗ trợ của các “tay to”, và đôi khi là độc lập trong sáng tạo nghệ thuật, độc lập trong tài chính nên con đường này khó khăn hơn rất nhiều. Nhưng vẫn có những ngoại lệ, khi đó những phim Cult vượt ra khỏi phạm vi nổi tiếng thường thấy của nó và ta vẫn hay gọi nó bằng cái tên Cult Classic.
Đa phần các phim khó hiểu đều là cult hoặc nếu may mắn thì sẽ trở thành cult-classic. Những bộ phim này chưa bao giờ được sản xuất để làm đối trọng với phim thương mại hay để kiếm tiền cho các hãng phim. Nó không phải được làm ra cho khán giả đi giải trí Quốc khánh hoặc Giáng sinh. Cũng không phải được làm ra để thu về 100 triệu đô trong tuần đầu tiên công chiếu.

Đây là kiểu phim kiểu dành cho một nhóm khán giả đặc biệt (Niche audience): Alice (Jan Svankmajer), Auditon (Takashi Miike), Brazil (Terry Gilliam), Fight Club (David Fincher), Blue Velvet (David Lynch), The Holy Mountain (Alejandro Jodorowsky), Blade Runner (Ridley Scott), Videodrome (David Cronenberg)…
Cái giá phải trả cho việc đi tiên phong trước thời đại đôi khi là chỉ trích và thái độ thù địch của một bộ phận khán giả/phê bình điện ảnh vào thời điểm ra mắt, phải mất nhiều năm mới được ghi nhận và chấp nhận.
Một trong những phim cult gần đây mình xem là Cloud Atlas (Wachowskis, Tom Tykwer). Có nhiều ý kiến trái chiều về phim này, người phát cuồng vì nó, người chửi không tiếc lời, thậm chí vào cả danh sách mười phim dở nhất năm 2012 của tạp chí Times.
Nhưng mình có một niềm tin mãnh liệt rằng nhiều năm sau, Cloud Atlas sẽ đạt được cái vị trí ngày nay của những Fight Club, El Topo hay thậm chí là cả Citizen Kane. Những người xem trung thành của Cloud Atlas vẫn ngày tháng âm thầm truyền bá và dùng sức mạnh của truyền miệng để giúp bộ phim lan xa, được ghi nhận tương xứng với giá trị của một cult-classic.
(còn tiếp)
Nguồn: Mann Up