Thật tình tôi không biết gì nhiều về đạo diễn Hiroshi Teshigahara lẫn nhà văn Kôbô Abe, ngoài chuyện cả hai người đều là đại diện tiêu biểu cho nền điện ảnh – văn học cổ điển Nhật Bản. Lý do tôi xem bộ phim này thực chất cũng rất không liên quan, tôi vốn dĩ là độc giả trung thành của Banana Yoshimoto và Haruki Murakami, vậy nên chẳng hiểu theo một thuật toán kỳ dị phức tạp nào đó, tiểu thuyết Woman in the Dunes do Kôbô Abe sáng tác, luôn được để trong phần suggestion trên trang chủ goodreads.
Nhìn một, hai lần thì cũng chả quan tâm mấy, nhưng mưa dầm thấm lâu, cuối cùng tôi cũng lọ mọ tìm thử bản dịch tiếng Việt của cuốn sách. Hỡi ôi, NXB Văn Học … Nếu ai có kiểu đọc sách khó tính như tôi, chắc đều sẽ công nhận, cầm những cuốn sách do NXB này làm trên tay nhiều khi thấy xấu hổ thay cho tác giả. Tệ hại từ khâu dịch thuật cho tới chất lượng giấy in và thiết kế bìa.
…….
Vậy nên tôi đành chọn phương án B, xem tác phẩm điện ảnh chuyển thế từ tiểu thuyết.
Điều đầu tiên phải nói về Woman in the Dunes: Quá Đẹp.
Mặc kệ việc đây là một bộ phim trắng đen cũ mèm và sử dụng những kỹ thuật cũng như góc quay cổ lỗ sĩ, ở Woman in the Dunes toát lên một sự tinh tế khó cưỡng của nét hoang sơ trần trụi. Khó có thể tưởng tượng một bộ phim từ hơn 50 năm trước, vẫn có thể thỏa mãn nhu cầu thị giác cho người xem, đem tới những xúc cảm mới lạ, khai phá một góc nhìn mới trong tâm hồn kẻ hậu thế.
Điều thứ hai để miêu tả về Woman in the Dunes: Cát.
Cát thì có gì mới lạ? “Cát”, nghe thật tầm thường và bình thường. Người ta ngắm đồi cát, bờ biển cát trắng một lúc rồi cũng nhàm. Cát dùng để làm gì ngoài xây dựng, lọc nước và làm thủy tinh? Cát, nghe là đã thấy chán.
Câu chuyện trong Woman in the Dunes được mở đầu và kết thúc bởi nhân vật người đàn ông. Dù đến cuối phim tên của anh được hé lộ, nhưng điều đó chỉ trôi tuột khỏi tâm trí người xem như cát chảy qua những kẽ ngón tay. Đó cũng là điều dễ hiểu khi gần như toàn bộ các nhân vật trong phim đều khuyết danh, ta nhớ về họ, gọi họ bằng những thứ chung chung: “người đàn ông”, “người đàn bà”, “lão già”, “dân làng”. Bộ phim không có nhiều nhân vật để ta phải phân biệt và họ không có cái gì đặc biệt để ta thấy ấn tượng. Ngoài “người đàn ông” và “người đàn bà”, tất cả những ai xuất hiện trong phim đều nhợt nhạt, thoáng qua và bí ẩn biến mất trong cát.
…….
Người đàn ông đam mê nghiên cứu và sưu tập côn trùng. Đó như sự mỉa mai khi anh cuối cùng lại trở thành kẻ bị giam cầm trong một cái bẫy, bị xem như một con thú vật, bị chìm dần trong quên lãng. Anh điên cuồng tìm lối thoát, chấp nhận trả những cái giá đớn hèn nhất để được thoát ra. Anh tự nhủ mình không thể tiếp tục cuộc sống vô nghĩa không mục đích như thế này. Để rồi có lúc, anh gần như không còn là con người.
Người đàn bà sở hữu một sự cam chịu đến kỳ lạ, kỳ lạ đến mức đôi khi ta phải tự hỏi cô có bị điên không. Cô cần mẫn như một con dã tràng, xúc từng thùng cát thâu đêm, ngồi ăn cơm dưới một cái dù trong nhà để tránh cát rơi, xỏ từng chùm hạt để dành dụm tiền mua một cái radio trong khi chẳng hề hứng thú với cuộc sống bên ngoài cồn cát.
Cô chấp nhận tất cả, xem mọi thứ trong cuộc đời mình đều là hiển nhiên, rằng chỗ của cô là ở đây, trong cồn cát này và chịu đựng tất cả.
Cô làm thế vì mục đích gì? Và câu trả lời của cô chỉ khiến người xem thêm bực mình …
…….
Khó có thể không nhận ra nét tương đồng giữa bộ phim và cuốn tiểu thuyết Biên Niên Ký Chim Vặn Dây Cót của Haruki Murakami. Những hình ảnh về chiếc thang dây, hoang mạc, việc nhân vật chính bị nhốt trong một không gian nhỏ hẹp và luôn hướng suy nghĩ của mình về những điều ngoài tầm với là những ví dụ tiêu biểu. Vậy nên tôi mới từng nói, Haruki vốn dĩ không phải là một người “tiên phong”, cái hay của ông là biến những cái khởi nguồn của người khác thành điểm mấu chốt trong tác phẩm do ông sáng tác, dưới góc nhìn của riêng mình.
Cái nhìn về thế giới nhân sinh quan độc đáo trong Woman in the Dunes, chắc chắn đã được đúc kết từ hàng chục nghìn năm lịch sử của quốc đảo xa xôi này. Nó làm tôi nhớ đến một nhận định của Amélie Nothomb về quê hương thứ hai của bà: “Tính cách của cư dân đảo quốc luôn có gì đó khiến cho những vị khách từ lục địa không khỏi cảm thấy hoang mang, có lẽ vì cơ hội để họ giao lưu với những dân tộc khác bên ngoài biên giới trong hàng nghìn năm đầu tiên phát triển là vô cùng ít ỏi. Vậy nên ở bên trong họ, những thứ đúng hay sai, vốn dĩ ngay từ đầu đã không cùng một hệ tư tưởng với chúng ta.”
Thật sự thì tôi cũng không biết đã đọc những lời trên ở đâu và có chính xác là như thế không, vậy nên nếu có gì sai sót, mong các bạn thông cảm.
Woman in the Dunes sở hữu nhiều hơn 3 lớp tầng nghĩa, tôi chỉ dám khẳng định như thế. Còn việc bản thân có thể chạm vào cốt lõi của nó sâu đến chừng nào, thật sự tôi sẽ là một kẻ ba hoa khoác lác nếu dám nói ra. Đó cũng là lý do tôi rất sợ viết về những bộ phim giàu tính hình ảnh biểu trưng như thế này, không phải tôi ngại mình hiểu sai, tôi chỉ lo đầu óc nông cạn này sẽ viết lên những thứ khiến người khác lệch khỏi suy nghĩ của chính họ. Đó mới là cái tội ác lớn nhất của một “người viết”.
…….
Tôi đang có quá nhiều thứ đang túa ra trong đầu khi viết về bộ phim này. Giống như bị sa vào một trận bão cát, tôi lần mò trong trạng thái mù mờ và mất phương hướng. Vậy nên để không làm mất thời gian của mọi người, có lẽ tôi sẽ dừng lại ở đây. Đôi khi dở dang một chút cũng tốt, nó sẽ khiến đầu óc của tôi bỏ ngỏ nhiều không gian để phát triển suy nghĩ thêm, nếu có cơ hội để xem lại Woman in the Dunes.
Vì đây không chỉ là kiệt tác của nền điện ảnh Nhật Bản.
Nó là tác phẩm trăm năm mới có một trên đời.
Nguồn: Blacksnow308